Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2014

Lộ trình 9 điểm dân chủ hóa Việt Nam - BS Nguyễn Đan Quế


Sức mạnh quần chúng sẽ quyết định
Khai triển Lộ trình 9 điểm dân chủ hóa Việt Nam
BS Nguyễn Đan Quế
 
Nếu ai thắc mắc hỏi Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam: “Liệu đảng có thể tiếp tục độc quyền lãnh đạo đất nước được không? Câu trả lời của họ sẽ là: “Chắc chắn và hiện chúng tôi đang nắm quyền.”
Nhưng vấn đề là càng ngày càng ít người tin điều đó. Dân chúng, kể cả một số đông đảng viên, rất bất mãn nạn bè phái, tham nhũng, và những luận điệu đổ lỗi cho nhau. Không ai chịu trách nhiệm. Phát triển không có đường lối. Chính quyền vô hiệu năng. Lãnh đạo theo đuôi quần chúng, giải pháp vá víu, thế nhưng tuyên truyền lại vẽ ra một bức tranh tưởng tượng tốt đẹp ghê gớm.
Lòng dân không phải là chán, mà là quá chán. Dân đen, nạn nhân trực tiếp, cam chịu nhưng ngấm ngầm phản ứng lại:
- Coi bọn cầm quyền là ma quỉ. Coi đảng là kẻ đẻ ra mọi bất công, tham nhũng, mà thủ phạm chính là Bộ Chính Trị. Ngay trong nội bộ, nhiều tiếng nói đòi dân chủ hóa đảng, tố cáo Bộ Chính Trị lũng đoạn. Để lừa bịp là có dân ủng hộ, Bộ Chính Trị nhập nhằng định đưa cho Quốc Hội thông qua chính sách của đảng. Họ phải nhớ rằng đại biểu quốc hội trên nguyên tắc chỉ đại diện cho nhân dân Việt Nam, không có nhiệm vụ hiến định thông qua đường lối của đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Tẩy chay quốc doanh, mua hàng tư doanh có sẵn và tốt hơn. Quốc doanh luôn thua lỗ vì quản lý kém và là ổ tham nhũng, ngân hàng nhà nước không cứu thì sụp đổ, mà ra tay trừng trị thì mọi chuyện xấu xa phơi bầy.
- Một Việt Nam lạc hậu đặt giữa thế giới đang sôi đọng vì tiến bộ, làm chiếc bánh vẽ trở nên trơ trẽn. Thực tế làm Bộ Chính Trị bẽ mặt, hết huyênh hoang. Trong dân gian thiếu gì những lời chửi bới, xỏ xiên:“Nói láo! Tưởng dân là con nít hay sao?” Trí thức lắc đầu: “Hành dân thì dân lánh”. Còn giới trẻ: “TV xem phim thôi, lên mạng tin tức mới chính xác”.
Tất cả những phản ứng ngược, chống đối của hàng chục triệu con người đã tạo sức mạnh tổng hợp đánh thẳng vô khả năng tham mưu của Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam. Độc tài làm suy nhược thần kinh, não bộ không còn điều khiển được tay chân trong khi dân đen tỉnh ngộ, nội lực của từng cá nhân trỗi dậy, cộng lại, nhân thêm. Cục diện diễn ra đúng lúc hội nhập nêntoàn dân ta có nhiều thuậnlợi:
1/ Trên mặt trận kinh tế:
a. Tư bản vào đầu tư buộc Việt Nam phải theo kinh tế thị trường. Hạ tầng kinh tế, xã hội đang thay đổi sâu rộng và sẽ quyết định thượng tầng lãnh đạo phù hợp.
b. Buôn bán với các nước khác như Âu Châu, Nhật Bản và nhất là thương ước Việt Mỹ đang phát huy tác động. Cải tổ kinh tế đòi hỏi cải tổ luật lệ nhưng cải tổ luật lệ lại quá chậm vì sợ mất quyền kiểm sóatlàm pháp luật bị rối loạn, tê liệt, thực thi không đúng mức hoặc nửa vời, trong khi các thương vụ lại ngày một gia tăng. Nhà nước đã phải ba lần bán cổ phần của công ty quốc doanh Vinamilk, một chuyện chưa hề xẩy ra trong qúa khứ, và cuối năm 2005 phải phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khóan quốc tế để vay vốn lãi xuất cao đến 7.125% mỗi năm trong 10 năm.
c. Đàm phán với Cơ Quan Mậu Dịch Quốc Tế (WTO) gặp khó khăn, nhất là với Mỹ. Lý do là vì Trung Cộng gia nhập WTO đã khuynh loát thị trường Mỹ về một số mặt hàng như may mặc, giầy dép… rút kinh nghiệm, Mỹ nâng cao tiêu chuẩn thương thuyết với Việt Nam. Hàng Việt Nam sẽ khó vào Mỹ hơn và rất khó cạnh tranh với hàng Trung Cộng. Hậu quả là quốc doanh sẽ đi tới phá sản, trong khi lãnh vực tư doanh sẽ ngày càng lớn mạnh hơn. Hiểu rõ nguy cơ đó, Hà Nội đang một mặt cố thương lượng với Mỹ, mặt khác đang cố gắng gộp ba bộ luật đầu tư (quốc doanh, ngoại quốcvà tư doanh) thành một bộ luật duy nhất bình đẳng theo yêu cầu của WTO, nhưng Bộ Chính Trị vẫn lắt léo tìm cách chi phối và dìm khu vực tư nhân bằng các biện pháp hành chánh. Những biện pháp này đang gặp khó khăn và bị chống đối.
2/ Trên mặt trận giáo dục và văn hóa:
a. Những trao đổi văn hóa, giáo dục bắt đầu vài năm nay giữa Việt Nam và nhiều nước khác trong đó có Hoa Kỳ, mới có một chiềutừ Việt Nam ra, chiều từ ngoài vào còn đang thương thuyết. Cùng với mở cửa kinh tế, nhiều phần chắc là Hà Nội phải nhượng bộ. Hà Nội đã phải để ngoại quốc vào mở trường dậy theo chương trình của họ tại Việt Nam.
b. Giáo dục nhân bản và văn hóa đa nguyên được mọi người hoan nghênh, đặc biệt là giới trẻ. Nhà cầm quyền Hà Nội sẽ phảixóa bỏ nền giáo dục nhồi sọ, lỗi thời, và chấm dứt gỉảng dậy tư tưởng Max Lenin tại các trường học một ngày không xa.
3/ Cao trào nhân quyền và dân chủ dâng cao:
a. Thế giới trở nên thu hẹp vào thời đại bùng nổ thông tin và di chuyển dễ dàng. Qua internet và du lịch, cộng đồng người Việt hải ngoại và các tổ chức tranh đấu cho nhân quyền trên thế giới đang đưa vào Việt Nam hàng triệu ngọn đuốc soi sáng giá trị phổ quát của nhân quyền và dân chủ, mà đáng lý ra dân tộc ta phải được hưởng nhưng bị Cộng Sản dùng cường lực tước đoạt.
b. Liên Hiệp Quốc đã thông qua bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền năm 1948, Công Ước Về các Quyền Kinh Tế và Xã Hội; Công Ước Về Quyền Dân Sự và Chính Trị; và hai phụ đính (protocol) năm 1966. Gộp cả lại thành một bộ luật Nhân Quyền hoàn chỉnh mang tính chất hoàn vũ: Trên lãnh vực nhân quyền, mỗi cá nhân và cả dân tộc là chủ thể của một nước, chính quyền phải tôn trọng những quyền căn bản của người dân. Nếu vi phạm, bất cứ ai ở bất cứ đâu cũng có quyền lên tiếng bênh vực, trợ giúp làm thay đổi chế độ, giới cầm quyền không thể viện dẫn lý do chủ quyền. Giới trẻ, chiếm gần 70% dân số, hấp thụ rất nhanh giá trị hoàn vũ về dân chủ vànhân quyền này và hiện là chất xúc tác đưa phong trào tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền lan rộng khắp nước. Chính nghĩa đang nằm trong tay dân tộc ta.
Trên đây là những biến động kinh tế, văn hóa, xã hội chưa từng có, khiến toàn bộ hệ thống chính trị Cộng Sản lâm vào tình trạng bất lực, không thể khai phóng được tiềm năng, sức sống của dân tộc.
xxx
Phải có đường lối hoàn toàn khác:
Xuất phát từ thực trạng thế giới hôm nay, xu thế thời đại và những giá trị phổ quát mới của nhân loại có khả năng tạo niềm tin giữa các thế hệ người Việt trong - ngoài, và giữa Việt Nam với thế giới. Từ đó dân tộc ta đoàn kết và hội nhập.
Hầu hết mọi người đều đồng ý vềthực tế đã được kiểm chứng tại nhiều nước tiến bộ: Phát triển phải đi đôi với dân chủ, tự do hóa kinh tế; văn hóa sẽ dẫn đến tự do hóa chính trị; mỗi cá nhân cần có cơ hội phát triển cả tinh thần lẫn vật chất, khiến xã hội -- tập thể của nhiều cá nhân-- mới tiến vững mạnh và phong phú. Trong hiện tình đất nước, muốn đường lối như vậy hình thành, cần diệt độc tài, phát huy sức mạnh quần chúng theo hướng:
1/ Mở rộng thương mại, thêm nhiều đầu tư: Các nhà kinh doanh chắc chắn sẽ đòi minh bạch, phản đối tham nhũng, yêu cầu Hà Nội tôn trọng những gì đã ký. Bất cứ một sự khựng lại nào của giới đầu tư, ngụ ý cần phải có chiều hướng khác mới có thể tiếp tục, sẽ gây khủng hoảng. Đảo ngũ của giới đầu tư là mối lo âu nhất của Bộ Chính Trị, và là một vũ khí tốt nhất để thúc đẩy thay đổi chính trị ở Việt Nam.
2/ Học sinh, sinh viên thích đi du học, hoan nghênh các học bổng giáo dục, kỹ thuật và ủng hộ các chương trình giao lưu văn hóa toàn cầu. Đây là phương thức hữu hiệu nhất để các anh em trẻ gột rửa một chủ nghĩa sai lầm và tự đào tạo cho mình một tương lai tươi sáng hơn.
3/ Thế giới hòa nhập, ai sống hoặc làm việc tại Việt Nam, nếu có vấn đề pháp lý, họ liên hệ với chính quyền theo thông lệ quốc tế, không cần biết đến cái gọi là “đảng lãnh đạo”. Trong hoà bình, hợp tác phát triển, ký sinh trùng “đảng” đục ruỗng chính quyền, gây trì trệ và méo mó sinh hoạt của người dân. Muốn cơ thể lành mạnh, phải tẩy trừ giun sán.
4/ Dân đen khi bị áp bức, đến cầu cứu đại biểu quốc hội của họ, gây áp lực đòi quốc hội phải có tiếng nói độc lập hơn. Khuyến khích Quốc Hội biến thành diễn đàn đòi hỏi công lý, đồng thời, cũng là lý do chính đáng để Quốc Hội thông qua các đạo luật dân chủ hơn, bác bỏ các điều khỏan chỉ phục vụ cho thiểu số lũng đoạn. Một khi sức mạnh quần chúng lên đến cao điểm, biến cố sẽ sẩy ra. Nhiều vấn đề gay cấn, nóng bỏng như tham nhũng, bất công xã hội, tranh chấp đất đai, đình công, thất nghiệp, giáo dục, y tế, tôn giáo, đồng bào Thượng… có thể nổ tung ra bất cứ lúc nào. Thành phần trẻ, giữ những chức vụ then chốt trong các ngành các cấp kể cả quân đội, lúc đầu trung lập nhưng sẽ nhanh chóng đứng về phía quần chúng. Nếu chính quyền đàn áp, bạo loạn có thể bột phát ngay, vì với điện thoại di động và internet, quần chúng có thể tập hợp và phân tán dễ dàng trên quy mô rộng lớn và ở nhiều nơi cùng một lúc.
Lòng dân thực sự mong muốn có chuyển tiếp ít rối loạn, muốn vậy cần kinh qua một giai đoạn ngắn chuyển nghị trường sang dân chủ. Hiện áp lực đòi thay đổi trong - ngoài đang lên cao mạnh mẽ, và chắc chắn sẽ còn mạnh hơn nữa. Dù muốn hay không, Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản cũng phải:
1. Chấp nhận thông tin hai chiều, trong - ngoài ra vào dễ dàng.
2. Thả hết các tù nhân chính trị,
3. Nới rộngcác nhân quyền căn bản của người dân như tự do phát biểu ý kiến, báo chí, đi lại, lập hội …
4. Tôn trọng các tôn giáo và các sắc dân thiểu số.
Dù có nhượng bộ như vậy cũng chỉ mua được một thời gian ngắn, sức mạnh quần chúng tiếp tục dâng cao đòi hỏi Bộ Chính Trị:
5. Trao trả lại cho Quốc Hội vai trò là cơ quan quyền lực tối cao của đất nước, đúng như hiến pháp quy định.
Hòa đồng với sức mạnh quần chúng, Quốc Hội sẽ:
6. Tuyên cáo Việt Nam là một quốc gia tôn trọng nhân quyền, dân quyền và tài quyền.
7. Bãi bỏ tất cả các hoạt động của đảng trong chính quyền.
8. Soạn và thông qua luật bầu cử tự do, công bằng, có sự giám sát của quốc tế.
9. Quốc hội đứng ra tổ chức tổng tuyển cử để bầu các đại biểu vào Quốc Hội Lập Hiến để soạn thảo Hiến Pháp mới cho Việt Nam (Xử dụng bộ máy hành chánh đã tách ra khỏi ảnh hưởng của đảng và chiếu theo luật bầu cử trên).
xxx
Để kết luận:
Trong suốt qúa trình đấu tranh, sức mạnh quần chúng đã cho ta thấy ý dân muốn:
1. Đời sống ấm no: Người cầy có ruộng, công nhân có công đoàn bảo vệ.
2. Một nền kinh tế tự do. Tư nhân hóa ngay tức khắc và trên toàn quốc tất cả các xí nghiệp quốc doanh thua lỗ. Khu vực tư nhân phải giữ vai trò chủ yếu trong nền kinh tế quốc gia. Chức năng của chính quyền không phải là quản lý nữa, mà là điều hoà phối hợp giữa các khu vực của nền kinh tế quốc gia.
3. Giao thương với tất cả các nước trên căn bản bình đẳng, công bằng và cùng thịnh vượng.
4. Một nền giáo dục nhân bản, khoa học, đại chúng, khai phóng và sáng tạo nhằm đào tạo con người chứ không phải đào tạo công cụ cho chế độ. Một nền văn hóa đa chiều nhằm phát triển chứ không phải điều kiện hoá con người chỉ biết vâng lệnh.
5.Một nền dân chủ pháp trị. Người dân có quyền thay đổi chính phủ định kỳ qua bầu cử tự do, mỗi người một lá phiếu. Người lãnh đạo đất nước phải điều hành công việc quốc gia theo hiến pháp, trong luật định, và phải thường xuyên tham khảo ý kiến người dân qua các cuộc thăm dò dân ý một cách khoa học.
Sức mạnh quần chúng sẽ khai tử độc tài, khai sinh dân chủ.
Quần chúng, suy cho cùng, nắm giữ chìa khóa dân chủ. Sức mạnh quần chúng sẽ quyết định tất cả.
Sau hết, Dân Chủ chính là sức mạnh của nhân loại để đi vào tương lai.
 
Bác sĩ Nguyễn Đan Quế
Cao Trào Nhân Bản
12 tháng 12, 2005

Tuyên bố thành lập - TẬP HỢP VÌ NỀN DÂN CHỦ


Ðã đến lúc tập hợp lại, đấu tranh thiết lập chính quyền Dân Chủ để phát triển đất nước trong thế giới đang đổi thay vũ bão.

Ðứng lên nắm lấy cơ hội làm ăn trực tiếp với thế giới bên ngoài, biến đổi hẳn hạ tầng cơ sở xã hội. Hạ tầng mới quyết định thượng tầng phù hợp. Song song với hợp tác kinh tế và bằng phương cách hòa bình, nhân dân ta đấu tranh buộc bộ chính trị :

              -  tách đảng khỏi chính quyền, cấm dùng tiền thuế củng cố đảng trị cản trở tiến bộ.

              -  để Quốc Hội thảo luật bầu cử Dân Chủ.

              -  tổ chức bầu cử tự do và công bằng Quốc Hội Lập Hiến để thảo Hiến Pháp mới.

Chấp nhận chạy đua, đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn còn cơ may tồn tại trước khi quá muộn. Nếu không, khó tránh khỏi quần chúng đứng dậy lật đổ.Bất cứ ai ở bất cứ đâu yêu chuộng Dân Chủ và ủng hộ chính nghĩa của dân tộc Việt hãy tập hợp lại cùng nhau làm việc trên nguyên tắc :

Tự lực hoạt động và phối hợp hành động qua mạng toàn cầu internet.

Ai sẵn sàng mang hết tâm trí biến lý tưởng thành hiện thực có nhiệm vụ hướng dẫn những người khác đứng dậy đòi Dân Chủ.

Những cá nhân xuất sắc, có uy tín, được cộng đồng tín nhiệm hợp thành nền tảng của tổ chức chính trị Tập Hợp Vì Nền Dân Chủ.

Ðoàn kết lại! Dân Chủ phải thắng.

Việt Nam, ngày 13 tháng 11 năm 2000
Ðại diện ban vận động thành lập

Bs. Nguyễn Ðan Quế

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

THẾ CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU MỚI



THẾ CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU MỚI
BS Nguyễn Đan Quế
 
Có 4 yếu tố và 5 vấn đề giúp chúng ta có một lối nhìn mới về thế giới đang thay đổi rất nhanh.
Yếu tố thứ 1:
Mâu thuẫn chính trên thế giới ngày nay không còn là mâu thuẫn ý thức hệ cộng sản – tư bản nữa, mà là hố xa cách giữa các nước giầu với các nước nghèo đã đến giới hạn nguy hiểm, buộc mọi người dân cũng như mọi chính phủ phải quan tâm giải quyết.
Yếu tố thứ 2:
Ba tiêu chuẩn: (a) Sức mạnh chi phối thế giới là kinh tế, chứ không phải quân sự. (b) Tiềm năng một nước tiến hành cuộc Cách mạng Kinh tế Kỹ-thuật-cao . (c) Khả năng nước đó đóng góp trong việc lấp bớt hố xa cách giầu – nghèo.
Cho phép chúng ta nhận diện NĂM siêu cường Mỹ, Tầu, Nhật, Đức, Nga là năm trung tâm quyền lực chi phối mạnh nhất nền sinh hoạt chính trị toàn cầu.
Yếu tố thứ 3:
Chính yếu tố này làm thay đổi hẳn cục diện chiến lược toàn cầu: Tầu, Nhật, Đức trở thành những siêu cường mới đang tiến lên vị thế siêu cường độc lập với cả Nga lẫn Mỹ.
Yếu tố thứ 4:
Thế kỷ 20 có những phát minh khoa học đưa đến Cách mạnh  Kỹ-thuật-cao (phân biệt với Cách mạng kỹ-nghệ-hóa hồi thế kỷ 17 ở Châu Âu), như: thám hiểm không gian, xuất hiện của internet, điện thoại di động, truyền thanh – truyền hình kỹ thuật số…Các siêu cường đang chạy đua kỹ -thuật-cao-hóa toàn bộ nền kinh tế của mình.
                        *
Nhân loại  thế kỷ 21 có những thách thức toàn cầu vượt xa sức giải quyết của một siêu cường, dù giầu mạnh đến đâu. Thí dụ: Biến đổi khí hậu; chiến tranh không gian, mạng, sinh học;  chống nhà nước Hồi Giáo Tự xưng (IS)...
Trực tiếp liên quan đến đời sống hàng ngày của hàng tỉ người trên hành tinh có 5 vấn đề lớn, như:
1/ Nạn khan hiếm lương thực – thực phẩm
Có thể gia tăng sản lượng với những kỹ thuật mới về di truyền, phương pháp canh tác…Nhân loại sẽ không thiếu lương thực – thực phẩm, nhưng đưa cứu trợ đến được những nơi cần lại phụ thuộc không khí an ninh toàn cầu.
2/ Nạn khan hiếm nhiên liệu – năng lượng
Ngoài củi, than đá, có nhiều nguồn năng lượng mới như: năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng thủy triều, năng lượng sinh học, năng lượng lấy từ lòng đất…
3/ Khan hiếm tài nguyên kỹ nghệ
Có điều rất mới cần lưu ý. Kỹ-thuật-cao lần đầu tiên cho phép con người khai thác tài nguyên dưới đáy biển. Biển chiếm 71% vỏ quả đất, tài nguyên đa dạng và phong phú như trong đất liền.
4/ Nạn nhân mãn và di dân kinh tế.
5/ Nổi loạn của các nước nghèo chống lại các nước giầu.

Đứng trước 4 yếu tố và 5 vấn đề, Năm siêu cường Mỹ, Tầu, Nhật, Đức, Nga không có cách nào khác hơn là phải tiến đến Thế Chiến Lược Toàn Cầu Chung (dĩ nhiên mỗi siêu cường có Thế chiến lược riêng nhằm thi hành Thế Chung đó) để:
·         Một mặt, giữ vững thế khống chế của các nước giầu đối với các nước nghèo khi chúng tiến hành Cách mạng Kỹ-thuật-cao..
·         Mặt khác, các nước giầu chuyển giao Cách mạng Kỹ- nghệ-hóa (gồm kỹ thuật, vốn và quản lý) cho các nước nghèo để lấp bớt hố xa cách giầu – nghèo, một điều kiện quan yếu không thể thiếu nếu các nước giầu muốn tiến thêm bước lớn nữa.
Đường nối thủ đô của năm siêu cường nằm về Bắc bán cầu. Cho nên, người ta thường gọi Thế Chiến Lược Toàn Cầu Mới là Thế Hợp Tác Bắc - Nam, thay  cho Thế Chiến Lược Đối Đầu Đông – Tây trước đây:
·         Khối Bắc là các nước giầu chiếm khoảng 1/3 dân số toàn cầu, trong đó có năm siêu cường hàng đầu Mỹ, Tầu, Nhật, Đức, Nga.
·         Khối Nam là các nước nghèo, chiếm 2/3 dân số toàn cầu,  gồm 5 vùng: Đông Nam Á - Thái Bình Dương (với tổ chức hợp tác vùng là Asean), Nam Á (Saarc), Phi Châu (Ecowas), Châu Mỹ La tinh (Mercosur) và Trung Đông với tổ chức hợp tác vùng hiện chưa hình thành, nhưng sẽ là hợp tác giữa Israel và các nước Ả rập trong vùng.

Chúng ta cần lưu ý có mấy hình thức hợp tác trên thế giới:
·         Hợp tác giữa các siêu cường là hợp tác Bắc – Bắc, theo phương cách Hợp Tác Đa Phương (hay còn gọi là chủ nghĩa Hợp Tác Đa Phương) khi giải quyết các điểm nóng trên thế giới. Quan hệ Mỹ -Tầu – Nhật - Đức - Nga là Bắc – Bắc. Thí dụ: Liên minh hơn 20 nước chống IS nhanh chóng được thành lập. Ngày 23-9-2014 Mỹ và 5 nước Á Rập không kích IS ở Syria, mà không có sự đồng ý của nước này. Nga phản ứng rất nhẹ nhàng. Còn Tầu đang bị Hồi Giáo ở Tân cương khủng bố, nên cũng có chiều hướng ủng hộ. Hai ngày sau Hội đồng Bảo An thông qua Nghị quyết 2178 kêu gọi các nước ngăn chặn dòng người đầu quân cho IS.
·         Hợp tác Nam – Nam là giừa các tổ chức vùng trong khối Nam.
·         Hợp tác Bắc – Nam hay Hợp tác Nam – Bắc là giữa các nước giầu với các nước nghèo hay ngược lại. Cần phân biệt quan hệ của Tầu và Mỹ chẳng hạn với Viêt Nam là Bắc – Nam, khác xa với quan hệ của Việt Nam với các siêu cường này là Nam – Bắc./.
Bs Nguyễn Đan Quế
9-2014

Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2014

TÁCH ĐẢNG KHỎI CHÍNH QUYỀN

Bs Nguyễn Đan Quế
 
 TÁCH ĐẢNG KHỎI CHÍNH QUYỀN

VẬN DỤNG THẾ CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU MỚI HỢP TÁC BẮC – NAM VÀO TÌNH HÌNH HIỆN NAY CỦA VIỆT NAM
Tất cả mọi diễn tiến kinh tế, chính trị, quân sự trên thế giới, trong vùng Đông Nam Á– Thái Bình Dương cũng như tại Việt Nam và Biển Đông đang ở thế động biến rất mạnh.
30-4-1975 Mỹ hoàn toàn rút khỏi cuộc chiến Việt Nam. Tầu – Nga chấm dứt quân viện cho Việt Nam. Nay cả ba siêu cường này đều trở lại, chủ yếu bằng con đường kinh tế, dĩ nhiên kèm theo ý đồ chính trị, rất khó lường hết nhất là với Tầu Cộng. Hai siêu cường Nhật và Đức (cùng EU) cũng đã xông vào qua ngả đầu tư và thương mại.

Riêng Tầu Cộng, cường quốc mới nổi, đang từ bỏ kinh tế chỉ huy, chuyển sang kinh tế thị trường và có những thay đổi chiến lược lớn:
  • vừa xoay vào Thế Hợp tác / Cạnh tranh Liên hoàn với các siêu cường Mỹ, Nhật, Đức, Nga.
  • vừa thiết đặt những cơ sở làm ăn kinh tế chi phối các nước nghèo, đa số ở về Nam Bán Cầu. Điều này cũng giúp củng cố địa vị của Tầu trong Thế Liên hoàn.
Đối với láng giềng phương nam cũng theo cộng sản, Tầu Cộng ép Việt Nam ký Hiệp định biên giới trên bộ cuối năm 1999, Việt Nam mất khoảng hơn 1000 km2; và trên biển:
1956, sau Genève, Tầu Cộng chiếm một số đảo về phía đông của quần đảo Hoàng Sa.
1958 Phạm Văn Đồng gửi công hàm cho Chu Ân Lai công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Tầu Cộng.
1974, sau khi ký Paris, Tầu Cộng chiếm tất cả Hoàng Sa.
1988 Tầu Cộng chiếm bãi đá Gạc Ma của Trường Sa và 1995 chiếm thêm bãi đá Vành Khăn.
2000 Tầu Cộng ký phân chia Vịnh Bắc Bộ: Theo giới nghiên cứu phía Việt Nam bị thiệt khoảng 10.000 km2 so với Công ước Pháp – Thanh 1887.
TỪ QUÁI CHIÊU HD.981 &TPP ĐẾN…
Quái chiêu HD 981
Màn 1
3-5-2014 Tầu Cộng ngang nhiên mang dàn khoan HD.981 đặt ở phía Tây quần đảo Hoàng Sa, ngoài khơi ngang Đà Nẵng. Lập tức Bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam (BCT) bị du vào thế hoàn toàn bị động, buộc phải lựa chọn: Chống hay Không Chống.
  • Chống công khai ra mặt. Tầu Cộng ‘dứt sữa’ ngay. Hà Nội khó lòng tồn tại.
  • Hay không chống. Vừa chậm có thái độ, quần chúng phản đối ngay. Ngày 11-5-2014  giới trẻ Saigon và Hà nội rầm rộ biểu tình, Hà Nội nương theo kiểm soát, nhưng không đi ngược lại. Chỉ hai ngày sau 13-5 công nhân Bình Dương và Vũng Áng (Hà Tĩnh) đốt phá một vài cơ sở đầu tư của người Hoa và của nhiều nước khác. Khi tình hình vừa mới có vẻ vượt khỏi tầm tay, Hà Nội đàn áp liền, sợ Bắc Kinh kết tội là chống.
Toàn dân Việt Nam từ Nam chí Bắc chỉ trích nặng nề BCT là thuộc đồ bán nước mà lại ‘hèn với giặc ác với dân’.
Dầu đã mạnh tay đàn áp, Tầu Cộng vẫn không hài lòng, cho rằng để xẩy ra như vậy không được!
Màn 2
15-7-2014  Tầu Cộng rút dàn khoan HD.981 về.
Vài ngày sau Dương Thiết Trì sang Hà Nội, kêu gọi đứa con đi hoang phải trở về nhà ngay.
28 và 29-8-2014  Tập Cận Bình đồng ý tiếp sứ giả của Nguyễn Phú Trọng là Lê Hồng Anh sang Bắc Kinh tỏ bầy ăn năn hối lỗi. Từ nay tiếp tục xin lại được trung thành với 4 tốt và 16 chữ vàng, hứa không để những vụ việc biểu tình, hay đốt phá cơ sở người Hoa tái diễn nữa và cam kết bồi thường thiệt hại thỏa đáng.
Màn 3
Dưới đây là những gì mẹ Tầu ‘bồi thêm’ cho đứa con vừa đi hoang về:
- Quốc khánh 2-9-2014 của Việt Nam Tầu Cộng tổ chức tour du lịch ra Hoàng Sa.
- Tuyên bố sẽ thiết lập vùng nhận diện phòng không ở biển Đông.
- Tân Hoa xã ngày 8/10 loan tin đường băng cho máy bay vừa mới xây xong trải dài băng qua đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa..
- Đắp thêm hai bãi đá ngầm Gạc Ma và Vành Khăn thành đảo nổi, cải tạo địa hình và xây dựng cơ sở.
16-10 Tầu Cộng tiếp 13 tướng cao cấp nhất của Hà Nội. Chuyên gia về Việt Nam có nhận xét: "Hai bên cùng tìm cách trấn an nhau về việc làm sao để quân đội đứng bên ngoài tranh chấp biển đảo."
    - 16-10  Đài Loan lên tiếng đang xây dựng cảng trên hòn đảo Ba Bình lớn nhất của Trường Sa. Hải cảng này sẽ cho phép chiến hạm và tàu hải giám nặng 3.000 tấn vào ra. Dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2015.Bắc Kinh lên tiếng ủng hộ, nói việc này ‘không có gì phải phê phán’.
Và một loạt chuyện khác như: lâu lâu lại cho công bố một tài liệu mật bấy lâu được giữ kín giữa hai đảng (như công hàm 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng công nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Tầu Cộng), cho tình báo tung tin gây chia rẽ nội bộ (điển hình Hoàn Cầu thời báo đăng tin ở Hội nghị Thành Đô 1990 Hà Nội nguyện biến Việt Nam thành khu tự trị vào năm 2020), lũng đoạn nền kinh tế Việt…
    - 20-10-2014   Blogger Điếu Cầy Nguyễn Văn Hải chống Tầu Cộng được ra tù và đi Mỹ. Có lẽ cũng là để làm vừa lòng Bắc Kinh.
     Chắc chắn còn tiếp diễn nhiều màn nữa khiến người dân Việt phải sửng sốt sững sờ khi Tầu Cộng công bố thêm những điều mình muốn biết mà chưa được biết; và BCT dù ngậm đắng nuốt cay nhẫn nhục đến đến thế nào chăng nữa cũng khó chịu đựng nổi.
Hậu quả chính trị là gì?
Rất rõ ràng, người Việt trong cũng như ngoài nước thấy ngay: BCT bị hạ nhục dài dài giữa thanh thiên bạch nhật.
Uy tín xuống đất đen, làm sao BCT lãnh đạo hơn 90 triệu người trong khi nền kinh tế lụn bại đang trên sa đà phá sản, nợ công và nợ xấu ngập đầu, tham nhũng tràn lan, hệ thống chính trị bế tắc và nghẹt thở, quần chúng bất mãn đòi bỏ Xã Hội Chủ Nghĩa… Nhìn trước sau thấy chỉ còn một cách duy nhất có thể giúp thoát hiểm: TPP.
Phao cứu sinh TPP
TPP là Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương gồm 12 nước. Đầu tầu là hai siêu cường kinh tế Kỹ-thuật-cao Mỹ và Nhật. Còn đang trong vòng thương thảo.Theo dự kiến sẽ ký 2015. Phao cứu sinh TPP được chìa về phía chính quyền đang rất cần thuốc tăng lực TPP.  
TPP của Mỹ và Nhật (cùng với những hiệp ước đối tác của EU, Canada, Úc, cũng như ASEAN trở thành cộng đồng kinh tế vào 2015) luôn có 2 mặt:
  • Một mặt, có thể cứu nền kinh tế Việt Nam đang nguy khốn, nhưng phải theo kinh tế thị trường. Đáp ứng mưu sinh ‘thoátTrung’, nhưng Hà Nội phải thay đổi hoàn toàn cơ chế điều hành nền kinh tế theo qui luật thị trường, đoạn tuyệt hẳn với kinh tế nhà nước chỉ huy.
  • Mặt khác, Việt Nam phải tôn trọng nhân quyền, phải thả hết tù nhân lương tâm, phải tôn trọng luật lao động, phải để công nhân lập công đoàn độc lập, phải tôn trọng tự do tôn giáo…
… ĐẾN PHONG TRÀO DÂN CHỦ VIỆT NAM (PTDCVN)
Trong tình hình đó, Phong trào Đấu tranh cho Nhân Quyền và Dân Chủ Việt Nam có nhiều thuận lợi để phát triển trong lòng dân rộng khắp trên cả nước. Đã có những phối hợp giữa các tổ chức xã hội dân sự, giữa các thành phố, các tỉnh nhưng còn ở mức độ thấp. Sẽ nhanh chóng kết hợp lại khi cơ hội thay đổi đến, khi cục diện đất nước đòi hỏi.
Khởi động tiến trình Dân Chủ Hóa Việt Nam, trước hết phải tách đảng khỏi chính quyền bằng Sức Mạnh Quần Chúng (SMQC).
SMQC tác động trên thế đảnglực chính quyền của độc tài cộng sản.
Cả hai thế và lực nay đều:
  • Đang đi xuống.
  • HD.981 đánh vào đảng bắt qui phục Bắc phương; trong khi phao cứu TPP lại nhử chính quyền ngả về Tây phương.
Cũng nên biết Mỹ, Tầu đang đi vào Hợp tác / Cạnh tranh trong Thế Chiến Lược Toàn Cầu Mới. Vậy làm gì có dây mà ‘đu đưa’ giữa hai siêu cường này. Thực tế đang diễn ra là: Đảng và chính quyền cộng sản đang bị kéo căng ra theo hai hướng khác chiều. Cuối cùng, chính SMQC có sứ mạng lịch sử là tách đảng ra khỏi chính quyền. Dĩ nhiên, với rất nhiều thách thức, khó khăn, gian khổ.
Tách đảng khỏi chính quyền là tiền đề cho tiến trình Dân Chủ Hóa Việt Nam. Chúng tôi sẽ trình bầy tiến trình này trong tương lai.
BCT bắt đầu lờ mờ cảm thấy ‘ly hôn đảng – chính quyền’ là điều không thể tránh khỏi, làm sao cưỡng lại lòng dân, làm sao đi ngược lại Thế Chiến Lược Toàn Cầm Mới Hợp Tác Bắc – Nam, vốn chủ trương đưa ASEAN đi vào hòa bình, an ninh, ổn định, và hợp tác vùng để phát triển ./.



Bs Nguyễn Đan Quế
21-10-2014

NHỮNG BIÊN GIỚI ‘MÔI HỞ RĂNG LẠNH’

NHỮNG BIÊN GIỚI ‘MÔI HỞ RĂNG LẠNH’


Bs Nguyễn Đan Quế

NHỮNG BIÊN GIỚI ‘MÔI HỞ RĂNG LẠNH’

  1. VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI MIỀN BẮC
1858 Pháp nổ phát súng đầu tiên đánh vô Đà Nẵng.
1862 Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông và 1967 chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ.
1895 Pháp vẽ bản đồ Đông Dương sau khi ký hiệp ước với triều đình Mãn Thanh ấn định biên giới dài 1300 km giữa Việt Nam và Trung Cộng.
1928 Để chống Pháp, Hồ Chí Minh thành lập đảng Cộng Sản Đông Dương, hoạt động ở cả Việt - Miên - Lào, với sự trợ giúp của đảng Cộng Sản Tầu.
Năm 1941, Hồ Chí Minh về Việt Nam lập chiến khu dọc theo biên giới tiếp giáp với Tầu. Để bảo đảm an toàn, đoạn chót đường tầu hỏa và đường bộ của Tầu ăn sâu vào lãnh thổ Việt Nam có nơi 500 mét, nhiều nơi đến cả cây số và nơi này dùng làm an toàn khu đặt cơ quan đầu não, huấn luyện cán bộ, dưỡng quân, tiếp nhận và cất dấu vũ khí. Nếu Pháp hành quân hay dùng máy bay oanh tạc vùng này, Tầu sẽ la lên là vi phạm lãnh thổ của họ.
28-2-1972 Tầu Cộng ký thông cáo chung Thượng Hải với Mỹ để lộ chiều hướng chuyển từ đối đầu sang hợp tác, bảo đảm cho Mỹ có thể an toàn rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam.
27-1-1973 Ra đời Hiệp định Paris ‘Chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam’.
Cuộc chiến Việt Nam kết thúc ngày 30-4-1975.
Từ năm 1975 đến cuối năm 1978, biên giới Việt Nam - Campuchia triền miên rối loạn. Đầu năm 1979 Việt Nam tiến quân sang Campuchia. Tầu liền tiến quân sang ‘dậy cho Việt Nam một bài học’, chiếm  vùng dọc theo biên giới (mà trước đây trong thời kỳ chống Pháp Hà Nội ‘ngầm giao’ cho họ nhờ bảo đảm an toàn) nói là phần đất của họ.
Việt Nam mất khoảng 1000km2 dọc biên giới với Tầu, trong đó có Ải Nam Quan, có cao điểm ở Bắc Giang, thác Bản Giốc…
Đầu năm 1991 quan hệ Tầu – Việt mới chính thức được nối lại sau Hội nghị Thành Đô. Nhiều tin loan truyền: nhân sự cấp cao trong Bộ chính trị đảng công sản VN (BCT) bị Bắc Kinh chi phối; và kinh tế, chính trị, quân sự phụ thuộc Bắc Kinh càng ngày cành nhiều.
Nhiều âm mưu đen tối giữa hai đảng cộng sản Tầu - Việt, dân ta hoàn toàn không được biết, nói chi đến đồng ý hay không.
Do đó, thái độ của dân tộc ta đối với biên giới trên bộ là:
Mọi công dân Việt Nam, trong cũng như ngoài nước đều có bổn phận bảo vệ lãnh thổ, tài nguyên của Việt Nam do tiền nhân để lại. Không một ai, một đoàn thể hay đảng phái nào trong bất cứ hoàn cảnh nào có thể nhân danh dân tộc Việt Nam ký kết những văn kiện bán nước cho ngoại bang. Do đó, dân tộc ta không bị ràng buộc bởi hiệp định phân định đường biên giới trên bộ ký kết 2001, Hà Nội dâng đất để được Tầu Cộng ủng hộ, hầu tiếp tục thống trị nhân dân ta. Nhân dân ta không coi những thỏa thuận ngầm giữa Hà Nội và Bắc Kinh là có giá trị.
Toàn bộ vấn đề biên giới trên bộ phải trở lại bản đồ do Pháp vẽ năm 1895 trên cả ba biên giới Việt Nam giáp Tầu, Lào và Campuchia. Sở dĩ phải dùng bản đồ này vì đây là bản đồ đầu tiên được vẽ một cách khoa học bởi các chuyên viên về địa dư của Pháp. Chỉ có dùng bản đồ biên giới do Pháp vẽ chúng ta mới hy vọng tránh khỏi những tranh chấp triền miên và tạo đuợc một nền hòa bình lâu dài cho bán đảo Đông Dương. Nhân dân ta cũng tố cáo trước dư luận trong nước và quốc tế sự hèn hạ của tập đoàn Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam để mất đất cho Tầu Cộng, nhưng lại đi hiếp đáp chiếm đất của Lào và Campuchia.
Phải kiên định lập trường này. Có thế, mới có thể đặt lại vấn đề với Tầu khi điều kiện lịch sử
cho phép.

  1. VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN TRÊN BIỂN ĐÔNG
Sau Hiệp định Geneva chia đôi Việt Nam ở vĩ tuyến 17 năm 1954.
Năm 1956 Tầu Cộng chiếm một số đảo ở phía Đông quần đảo Hoàng Sa.
14-9-1958 Phạm Văn Đồng gửi công hàm cho Chu Ân Lai công nhận Hoàng Sa thuộc Tầu Cộng.
Tháng Giêng năm 1974, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ quần đảo Hoàng Sa giao chiến với Hải Quân Tầu Cộng. Quần đảo này nằm ở 14o 30’ – 17o00’ độ vĩ bắc và 111o 30’- 114o00’ độ kinh đông, khoảng ngang ngoài khơi tỉnh Đà Nẵng. Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà đi vòng đánh từ Bắc xuống, Hải Quân Trung Cộng đánh bọc hậu từ phía Nam lên. Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa thua, Tầu Cộng chiếm giữ đảo và cầm giữ một số tù binh nhưng đối xử tử tế và sau đó thả về. Sự việc xẩy ra chỉ hai ngày sau khi Ngoại Trưởng Mỹ Henry Kissinger gặp những nhà lãnh đạo Bắc Kinh. Mỹ không lên tiếng và Hải Quân Mỹ đang tuần tra trong vùng khi xảy ra xâm lăng đã phớt lờ không can thiệp, bênh vực Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng điều kinh ngạc và nổi bật nhất là chính quyền Hà Nội đã không có một lời phản kháng.
Cũng năm 1974, Tầu Cộng, Việt Nam Cộng Hòa, Đài Loan, Malaysia, Philippines, Brunei cùng lên tiếng đòi chủ quyền quần đảo Trường Sa khoảng ngang ngoài khơi Vũng Tàu.
30-4-1975    Quân đội Hà Nội chiếm Miền Nam Việt Nam, vi phạm Hiệp định Paris ‘Chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam’.
Năm 1988 ngày 14 tháng 3 Tầu Cộng cho hải quân chiếm bãi đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa. Năm 1995 lại chiếm thêm bãi đá Vành Khăn cũng thuộc Trường Sa.  
Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ ký ngày 25-12-2000 nhằm xác định biên giới lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế trong Vịnh Bắc Bộ. Theo giới nghiên cứu Việt Nam bị thiệt thòi so với công ước Pháp – Thanh ký năm 1887;  trong khi đó Hà Nội nói phân chia này công bằng.
Biển nói chung trong kỷ nguyên Kỹ-thuật-cao

Lục địa chiếm có 29% diện tích của trái đất và nguồn tài nguyên sắp cạn vì bị khai thác qua bao thế kỷ qua. Trong khi đó, biển cả chiếm đến 71%, cũng là vỏ quả đất nên tài nguyên phong phú và đa dạng như trong đất liền, còn nguyên vẹn chưa từng bị khai thác vì không có kỹ thuật.
Kỷ nguyên Kỹ-thuật-cao cho phép khai thác tài nguyên dưới đáy biển. Các nước có bờ biển vội tuyên bố thềm lục địa của mình 200 hải lý để xí phần. Có vùng chồng lên nhau, gây tranh chấp.
Các siêu cường Kỹ-thuật-cao tính toán sao cho trong tương lai, khi có Luật khai thác Tài nguyên dưới đáy biển, họ thủ lợi nhiều hơn. Đã có đề nghị là chia theo chiều sâu: Đáy biển (trong hải phận quốc tế) sâu xuống xm thuộc về tất cả các nước, dù có bờ biển hay không. Xuống sâu hơn xm, ai có kỹ thuật thác thì tài nguyên kiếm được sẽ thuộc về người đó. Ai cũng biết, chỉ có các siêu cường giầu mới có điều kiện và Kỹ-thuật-cao khai thác ở độ sâu đó.
Các siêu cường Thái Bình Dương như Mỹ, Tầu, Nhật, Nga hiện đang tái bố trí chiến lược (hay còn gọi là xoay trục chiến lược). Quá trình hình thành, dần dần hiện ra ‘vùng ảnh hưởng’ cùng ‘phương cách làm chủ’ của các siêu cường này trên Thái Bình Dương, trong đó tự do lưu thông trên biển và trên không chiếm lĩnh hàng đầu.
Lập trường của dân tộc ta về HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA

Rồi đây, những nguyên tắc chính của Luật khai thác tài nguyên dưới đáy biển sẽ được biết dần qua các hội nghị quốc tế về biển trong những thập niên tới.
Xin nhắc lại, một bộ luật khác đã ra đời: Đó là Luật biển của LHQ năm 1982 (qui định lãnh hải, thềm lục địa…). Nhiều quốc gia đã thông qua, trừ Mỹ. Phải chờ sự tham gia của Mỹ vì Mỹ là cường quốc biển số 1.
Lúc đó chủ trương quốc tế hóa các đảo tranh chấp để khai thác kinh tế với quy chế hư chủ sẽ được ủng hộ mạnh mẽ, sau nhiều thập niên không có giải pháp.  Qui chế hư chủ là các nước tranh chấp là chủ, nhưng không được có các hoạt động quân sự và không có quyền quốc hữu hóa; ngược lại họ có quyền tham gia vào cuộc thương thảo trong việc khai thác vùng biển xung quanh các đảo này và chia lợi nhuận.
Theo Bill Hayton vừa xuất bản cuốn The South China Sea: the Struggle fo Power in Asia thì “… thực ra đường chữ U là việc nhà chức trách Trung Quốc vào thập niên 1930 đã hiểu nhầm và diễn dịch sai bản đồ của Anh Quốc theo đó dẫn tới sự hiểu nhầm về sự liên hệ giữa Trung Quốc và Đông Nam Á. Tức là có sự hiểu nhầm là Biển Nam Trung Hoa là một phần thuộc về Trung Quốc.” và “ Vấn đề hiện nay là ở chỗ nhà chức trách Trung Quốc và người Trung Quốc tin rằng hoặc được dậy rằng Biển Nam Trung Hoa hay Biển Đông là thuộc về Trung Quốc về mặt lịch sử. Điều cần làm là nghiên cứu các dữ kiện lịch sử một cách trung lập để xem bên nào tuyên bố phần nào họ có chủ quyền. Tức là thay vì nói là chúng tôi sở hữu toàn bộ Tây Sa và Nam Sa hay Hoàng Sa và Trường Sa, các nước có thể nói rằng chúng tôi có thể chứng minh được rằng chúng tôi là bên đã có chủ quyền về một hòn đảo này hay đảo kia ở khu vực này hay khu vực kia và từ đó có thể bàn thảo với nhau”.
(Nguồn:http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/10/141014_bill_hayton_noi_ve_sach_bien_dong).

Đối với những người tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ Việt Nam, phải thúc đẩy Dân Chủ Hóa nhanh nhất để có hậu thuẫn toàn dân phát triển nội lực; cũng như mới có căn bản pháp lý vững mạnh (do dân bầu) thì tiếng nói của Việt Nam trọng lượng hơn nhiều trên trường quốc tế khi thương thuyết các hải đảo tranh chấp./.

Bs Nguyễn Đan Quế
14-10-2014